Phân loại và hệ thống học Sếu sarus

Tất cả chim sếu đều phát triển cao và ngón chân sau tiêu giảm nhiều.

Loài chim này được Linnaeus mô tả vào năm 1758, xếp vào chi Ardea cùng nhiều loài chim diệc lớn hơn.[25] Edward Blyth xuất bản chuyên khảo về chim sếu năm 1881, trong đó ông xem xét "sếu sarus" của Ấn Độ được hình thành từ hai loài, Grus collaris và Grus antigone.[26] Hầu hết tác giả hiện đại công nhận một loài có ba quần thể tách rời được xem như phân loài, mặc dù tình trạng quần thể tuyệt chủng từ Philippine không chắc chắn. Phân loài chỉ định từ Ấn Độ lớn nhất, tại phía đông từ Myanmar được thay thế bằng chủng loài sharpii kéo dài đến tận đảo Đông Nam Á. Hình dạng chủng loài chỉ định từ tiểu lục địa Ấn Độ được đánh dấu và phân biệt tốt nhờ vòng lông cổ trắng bên dưới phần cổ trên và phần đầu trọc, cùng lông cánh khoảng thứ ba màu trắng. Một số tác giả xem xét antigone và sharpii như đại diện cho quần thể tiếp diễn trước đây biến đổi dị biệt so với đồng loại.[9] Chủng loài tại Australia, ban đầu được đặt danh pháp sharpii (đôi khi viết chính tả sharpei nhưng được sửa đổi phù hợp quy tắc ngữ pháp Latinh[6]) được tách ra và đặt tên như chủng loài gilliae (đôi khi viết chính tả gillae hoặc thậm chí gilli). Chủng loài tại Australia chỉ được đề cử năm 1988, với chính loài đó nhận ra lần đầu tiên tại Australia năm 1969 và đánh giá như loài nhập cư gần. Tuy nhiên, người bản xứ Australia, phân biệt sếu sarus và sếu brolga, sếu sarus được gọi là "chim sếu khử trùng chiếc đầu trong máu". Chủng loài tại Australia có bộ lông chim sẫm tối riêng biệt và một mảng lông tai xám lớn. Quần thể này thể hiện sự phân kỳ gần đây nhất từ ​​hình dạng tổ tiên với ước tính có 3000 thế hệ nòi giống tại Australia.[4] Một phân loài bổ sung luzonica được đề xuất cho quần thể khi tìm thấy, nhưng hiện đã tuyệt chủng, tại Philippine. Không có ký tự riêng biệt được biết, đó có thể là danh pháp đồng nghĩa hoặc gilliae hoặc sharpii.[27]

Chim xòe cánh (Hodal, Ấn Độ)

Phân tích DNA ti thể, từ số lượng mẫu vật hạn chế, đề xuất rằng dòng gen tại quần thể trên lục địa châu Á đến thế kỷ XX đã thu hẹp phạm vi, và tại Australia chỉ chiếm thuộc địa vào kỷ nguyên Pleistocen muộn, khoảng 35000 năm về trước.[4] Điều này được chứng thực bằng cách phân tích DNA nhân vi vệ tinh gấp 4 lần kích thước vật mẫu.[9] Nghiên cứu này đề xuất xa hơn rằng quần thể tại Australia khá bẩm sinh. Như có thể tồn tại khả năng (giới hạn) lai giống với sếu brolga theo di truyền học riêng biệt, sếu sarus tại Australia có thể được mong đợi cho ra loài phôi thai.[9]

Nguyên từ

Tên gọi phổ biến của sếu sarus được xuất pháp từ tên gọi trong tiếng Hindi ("sāras") cho loài chim này. Từ ngữ Hindi được biến thể từ từ ngữ sarasa, trong tiếng Phạn, dành cho "chim hồ nước" (lake bird), (đôi khi bị viết sai thành sārhans). Trong lúc người Ấn Độ tôn kính chim sếu, binh sĩ Anh tại thuộc địa Ấn Độ đã săn bắn chim, gọi nó là serious (nghiêm trọng) [28] hoặc thậm chí là cyrus.[29] Danh pháp loài được đặt theo tên nàng Antigone — một nhân vật trong thần thoại Hy Lạp, con gái của Oedipus, nhân vật này đã treo cổ tự vẫn — có thể liên quan đến lớp da trọc trên đầu và cổ chim.[30]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Sếu sarus http://www.business-standard.com/india/news/after-... http://dsal.uchicago.edu/dictionaries/hobsonjobson... http://www.umsl.edu/~ricklefsr/Reprints/R2000.pdf http://digitalcommons.unl.edu/bioscicranes/26 http://digitalcommons.unl.edu/bioscicranes/26/ http://sora.unm.edu/sites/default/files/journals/a... http://sora.unm.edu/sites/default/files/journals/a... http://sora.unm.edu/sites/default/files/journals/a... //pubmed.ncbi.nlm.nih.gov/11773245 //pubmed.ncbi.nlm.nih.gov/15142765